Sự kiện
'Kinh tế tư nhân: Động lực vươn mình từ Nghị quyết 68'

VNF - 13/05/2025 08:00 (GMT+7)

(VNF) - Ngày 13/5, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức Tọa đàm “Kinh tế tư nhân: Động lực vươn mình từ Nghị quyết 68”.

Ngày 04/05/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Nghị quyết số 68/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Ông Hoàng Anh Minh, Tổng Biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, cho biết tháng 10/2024, Tạp chí Đầu tư Tài chính đã chính thức ra mắt cuốn Đặc san Toàn cảnh kinh tế tư nhân nhân kỷ niệm 20 năm Ngày doanh nhân Việt Nam. Sự kiện đó diễn ra trong bối cảnh các thông điệp chính sách của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong một năm qua đã nhấn mạnh đến một “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

“Với việc ban hành Nghị quyết 68 mới đây, có thể nói đây là dịp rất quan trọng để chúng ta cùng nhìn lại hành trình phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trong đó khối kinh tế tư nhân đang ngày càng phát huy hiệu quả vai trò quan trọng của mình. Đồng thời, cũng là thời điểm để các doanh nghiệp, doanh nhân nhận thức lại vai trò và cơ hội của mình trong dòng chảy phát triển chung của đất nước trong giai đoạn mới”, ông Hoàng Anh Minh nói.

13:00: Bế mạc

Phát biểu bế mạc tọa đàm, TS Lê Minh Nghĩa – Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) – bày tỏ sự trân trọng trước không khí trao đổi sôi nổi và hàm lượng chất xám rất cao của sự kiện. Dù phòng họp không lớn, nhưng quy tụ được đầy đủ các thành phần: học giả, nhà quản lý, nhà lập pháp, đại diện doanh nghiệp. 15 ý kiến trao đổi được đưa ra trong buổi tọa đàm, không thua kém về chiều sâu và thực chất so với một diễn đàn quy mô lớn.

Ông cũng không giấu được sự day dứt, trăn trở khi nhắc lại Nghị quyết số 10 Hội nghị Trung ương 5, nơi từng đặt mục tiêu đến năm 2020 có gần 1 triệu doanh nghiệp. Thế nhưng, đến nay đã sắp 2025, con số ấy vẫn chưa đạt được. Điều này cho thấy mức độ “đào thải” trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn.

“Nay ta lại đặt ra mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp, năm 2045 có 3 triệu doanh nghiệp, nghĩa là tăng thêm 1 triệu doanh nghiệp trong vòng 15 năm. Nhưng nếu nhìn về cơ cấu dân số, thì con số đó vẫn chỉ tương đương 1 doanh nghiệp trên 50 người dân, trong khi tại Mỹ là 1 doanh nghiệp trên 10 dân. Điều này đáng để chúng ta suy nghĩ nghiêm túc: Làm sao để người dân được làm, được hành động với tư cách là doanh nghiệp – chứ không phải chỉ 'khởi nghiệp' theo phong trào", TS Lê Minh Nghĩa trăn trở.

TS Lê Minh Nghĩa

TS Lê Minh Nghĩa cũng chia sẻ niềm vui về sự ra đời của Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân. Đây là tín hiệu tích cực, tạo ra không khí phấn khởi, hồ hởi trong xã hội. Rất nhiều lực lượng đã đón nhận, hưởng ứng, cảm thấy được ghi nhận và tin tưởng hơn vào tương lai.

Những người làm trong lĩnh vực này, như ông và nhiều cộng sự, đã chứng kiến sự vận động rất dài – từ chỗ kỳ thị kinh tế tư nhân, đến năm 1988 buộc phải thừa nhận kinh tế tư nhân “không thể chết”, rồi dần dần xác lập vai trò là một động lực quan trọng trong nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước, sánh vai cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.

“Có một ý trong nghị quyết lần này khiến tôi đặc biệt tâm đắc: Đó là xác lập rõ ràng vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực trong nền kinh tế quốc gia. Trước đây, chưa ai dám nói điều đó một cách chính thức. Có lẽ vì vậy, Trung ương rất thận trọng. Với một nghị quyết chính trị, quan trọng nhất là giữ được sự ổn định của đất nước. Nhưng nếu thiếu một chữ ‘một’ – tức là ‘một trong những động lực’ – thì sẽ là vấn đề lớn về mặt diễn giải”, ông Nghĩa phân tích.

TS Lê Minh Nghĩa cũng đề xuất các cơ quan quản lý sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để tổng hợp toàn bộ các nghị quyết từ Đại hội VI đến nay, từ đó đưa ra đánh giá khách quan và định hướng chính sách tiếp theo một cách hệ thống, không cảm tính. Những gì đang được hoạch định hôm nay cần được đặt trong tiến trình dài hạn, để tránh lặp lại các điểm mù chính sách trước đây.

“Khi đứng trước những vấn đề lớn của đất nước, chúng ta không thể lạc quan một cách mơ hồ, nhưng cũng không thể ngần ngại. Không có cách nào khác ngoài việc đi thì mới ra được đường. Với tư cách là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, VFCA mong muốn tiếp tục lắng nghe các ý kiến đa chiều và cùng góp phần tổng kết, đưa ra góc nhìn cho doanh nghiệp và nền kinh tế tư nhân nước nhà”, TS Lê Minh Nghĩa khép lại phần phát biểu.

Kết thúc tọa đàm, lãnh đạo VFCA và Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance tặng hoa cho các chuyên gia

12:53: Cần một Chính phủ kiên định và trí tuệ, một Quốc hội bản lĩnh, một xã hội sẵn sàng tạm ứng niềm tin cho doanh nghiệp

Chia sẻ tại tọa đàm, nhà văn Nguyễn Thành Phong nhìn nhận, hành trình xây dựng chính sách cho kinh tế tư nhân là một chặng đường nhọc nhằn, phải đánh đổi bằng không ít hy sinh và trả giá. Điều đáng mừng là thời gian gần đây, hành trình đó đang có những bước tiến vượt bậc – từ chỗ xác định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” đến quan điểm mạnh mẽ hơn: “một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”.

Ông Phong cũng dẫn lại một quan điểm mà ông lấy làm tâm đắc tại bài viết mới đây của Tổng bí thư Tô Lâm rằng đội ngũ doanh nhân sẽ tham gia thực chất vào quản trị chính sách, không chỉ làm giàu mà còn lãnh đạo việc làm giàu cho đất nước”.

Nhà văn Nguyễn Thành Phong

Nhà văn cho rằng, để đi đến thành công, cần hội tụ nhiều yếu tố. Ông nhắc lại quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa về chất lượng điều hành của Chính phủ và bổ sung thêm: “Theo tôi, chúng ta cần một Quốc hội bản lĩnh, một Chính phủ trí tuệ và kiên định trong lựa chọn mục tiêu; cần những doanh nghiệp có khát vọng và nội lực; và trên hết, phải có sự đồng thuận từ dư luận xã hội – nơi người dân thực sự thông thái và đặt niềm tin vào chính những doanh nghiệp của đất nước mình”.

Dẫn lại câu chuyện về đường sắt cao tốc, ông Phong nói: “Chúng ta khao khát có một tuyến đường sắt hiện đại, được xây dựng bằng vốn và năng lực của người Việt. Nhưng khi doanh nghiệp nội địa đứng ra đề xuất, họ lại phải hứng chịu sự dè bỉu – dù đó là những doanh nghiệp lớn, có thực lực và kinh nghiệm thực tiễn”.

Ông nhắc đến những bài học trong quá khứ: từ dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, cho đến đường trên cao Vĩnh Tuy – Ngã tư Sở. “Chúng ta đã thấy có những nhà thầu làm nhanh, làm hiệu quả, có trải nghiệm thực tế với các công trình lớn. Dù đường sắt cao tốc là bài toán phức tạp hơn, nhưng điều quan trọng là có sự tin tưởng”, ông nói.

Nhân dịp có đại diện Tập đoàn Đèo Cả tham dự, ông Phong chia sẻ thêm: “Tập đoàn này khởi đầu từ một hợp tác xã xây dựng nhỏ ở Hải Thạch, từng bước làm nên hầm Đèo Cả, rồi đến Hải Vân, và cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn. Bây giờ họ muốn làm đường sắt cao tốc, chúng ta cảm nhận rất rõ khát vọng của họ – đó không chỉ là một đề xuất kinh tế, mà là mong muốn được góp phần vào sự phát triển đất nước”.

Ông cho rằng, việc dư luận dè bỉu là một “tật xấu” không hiếm của người Việt. “Chúng ta cần một Chính phủ trí tuệ, một Quốc hội bản lĩnh để ủng hộ doanh nghiệp; cần một xã hội sẵn sàng tạm ứng niềm tin thay vì định kiến”.

Để đạt được điều đó, ông nhấn mạnh vai trò của các diễn đàn, hội thảo chính sách được tổ chức kịp thời, ngay từ khi văn bản mới ban hành. “Những tọa đàm như thế này là điểm khởi đầu rất đáng quý. Tôi mong rằng các cá nhân có tiếng nói và ảnh hưởng trong xã hội sẽ tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ, góp phần tạo điều kiện để công cuộc vươn mình phát triển của đất nước sớm thành công”, nhà văn Nguyễn Thành Phong gửi gắm.

12:40: "Cần cách tiếp cận mới trong thể chế nhằm giải phóng nguồn lực vô hạn từ kinh tế tư nhân"

Theo Luật sư Bùi Văn Thành, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đang mở ra một “trạng thái mới” cho khu vực kinh tế tư nhân – nơi không chỉ được khẳng định vị thế, mà còn cần được tiếp cận thể chế theo cách thức hoàn toàn khác trước.

Nghị quyết 68 đã tạo ra niềm tin mới cho cộng đồng doanh nhân, khi lần đầu tiên thể chế đặt trọng tâm vào việc nhìn nhận, trao quyền và phát huy vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực phát triển quan trọng.

“Khi được tin tưởng, người ta sẽ dám làm, dám bỏ tiền, bỏ công sức và trí tuệ để theo đuổi mục tiêu kinh doanh bền vững”, ông chia sẻ.

Không dừng lại ở việc khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, Nghị quyết 68 còn được kỳ vọng sẽ giúp loại bỏ những rào cản thể chế đang cản trở bước tiến của doanh nghiệp. “Nếu cái gì là rào cản với doanh nghiệp thì cần xóa bỏ ngay. Thể chế cần phục vụ cho sự phát triển, không phải làm chậm lại những nỗ lực của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh toàn cầu”, ông nhấn mạnh.

Luật sư Bùi Văn Thành

Vị chuyên gia cũng chỉ ra rằng, để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – với ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 18.000 USD – Việt Nam cần một cú hích thực sự từ khu vực tư nhân. “Con số 18.000 USD mà ta hướng đến hiện nay chính là mức thu nhập bình quân của Mỹ từ năm 1936. Chúng ta cần biết mình đang ở đâu, quy mô kinh tế ra sao và thực sự nhận thức rằng: nguồn lực lớn nhất không nằm ở đất đai, tài chính mà nằm ở trí tuệ của con người Việt Nam”.

Theo quan điểm của doanh nghiệp, cách tiếp cận mới trong phát triển khu vực tư nhân không nên chỉ dừng ở việc “cho” nguồn lực vật chất, như đất đai hay vốn vay. Điều cốt lõi là phải tạo môi trường để trí tuệ được phát huy tối đa. “Một doanh nghiệp công nghệ cao đến Việt Nam không chỉ vì chúng ta có khu công nghiệp công nghệ cao. Điều họ quan tâm là có được tự do phát triển hay không”, ông nói.

Theo ông, tự do ở đây không phải là vô hạn, mà là trong khuôn khổ pháp luật rõ ràng và minh bạch. Doanh nghiệp cần được tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, được tự do sáng tạo, tự do huy động vốn hợp pháp, thay vì chịu sự bó buộc bởi thủ tục hành chính rườm rà hay các hạn chế từ chính sách ưu đãi thiếu phù hợp.

Từ góc độ hội nhập quốc tế, ông Thành cũng cho rằng một trong những yêu cầu của Mỹ đối với Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương mại là cần xóa bỏ các hình thức trợ cấp không phù hợp. “Chúng ta cần nhận ra rằng cách hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp chính là tạo ra môi trường để họ tự đứng vững, tự vươn lên – chứ không phải chờ hỗ trợ từ các khoản vay hay ưu đãi một chiều”.

Trong bối cảnh chính sách thuế quan toàn cầu đang ngày càng khắt khe, đặc biệt là từ phía Mỹ, vị chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam không thể ngồi chờ nhà nước “ứng phó giúp”. “Một trong năm chủ trương quan trọng để ứng phó với các rào cản thương mại như thuế quan là chính doanh nghiệp phải tự đề xuất, tự kiến tạo thể chế phù hợp với thực tiễn kinh doanh”.

Ông lấy ví dụ: “Nếu thấy điều gì là hợp lý, phù hợp với quy luật thị trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững, thì chúng ta – tức doanh nghiệp, hiệp hội – phải mạnh dạn đề xuất, đừng chờ đợi thể chế hoàn hảo từ trên xuống. Việc tạo lập môi trường kinh doanh là công việc hai chiều, trong đó doanh nghiệp phải là một chủ thể tích cực”.

12:31: "Phải xây dựng một thế hệ doanh nhân có trình độ, hiểu biết và ý thức trách nhiệm với xã hội"

Theo ông Trần Văn Lê, Chủ tịch Tập đoàn Phương Linh, Nghị quyết 68 là một chủ trương có ý nghĩa đặc biệt, được ban hành trong bối cảnh lịch sử quan trọng của đất nước và nền kinh tế. Tuy nhiên, để Nghị quyết này thực sự đi vào cuộc sống, điều cốt lõi là phải giải quyết môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh đang khiến giá trị gia tăng bị bào mòn, chi phí bị đội lên và lợi nhuận của doanh nghiệp bị triệt tiêu.

“Chiến lược Đại dương xanh là tạo ra thị trường mới, ít cạnh tranh, nhấn mạnh sự khác biệt và tối ưu chi phí. Nhưng với môi trường hiện tại, doanh nghiệp Việt đang đối mặt với vô số chi phí vô hình từ thủ tục hành chính cho tới các rào cản khác”, ông Lê đặt vấn đề.

Ông Trần Văn Lê

Vị doanh nhân này cho rằng, điều nguy hiểm nhất hiện nay là Việt Nam vẫn chưa có luật chống bán phá giá – một công cụ then chốt để bảo vệ giá trị lao động và sản phẩm trong nước. “Nhiều quốc gia như Nhật Bản có những quy định chặt chẽ, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận tối thiểu cho doanh nghiệp. Còn chúng ta thì sao?”, ông Lê trăn trở.

“Tôi chỉ muốn nói rằng: nếu chúng ta không thay đổi tư duy, không cải cách thể chế, thì không chỉ đại bàng không thể về làm tổ, mà có về rồi cũng sẽ rời đi vì không thể tồn tại được”, ông Lê cảnh báo.

Theo ông Trần Văn Lê, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải xây dựng được một thế hệ doanh nhân có trình độ, hiểu biết và ý thức trách nhiệm với xã hội, với quê hương đất nước.

“Tôi tham gia nhiều chương trình đào tạo, nhưng gần như chưa thấy ai sẵn sàng đầu tư để hỗ trợ đào tạo bài bản cho các chủ doanh nghiệp. Trong khi cả nước hiện có khoảng 940.000 doanh nghiệp, thì điều cấp bách nhất là người đứng đầu doanh nghiệp phải giỏi, có năng lực quản trị và chiến lược. Chúng ta cần có chương trình đào tạo thực chất để nâng tầm đội ngũ doanh nhân”, ông Lê nhấn mạnh.

Tựu trung, theo ông Trần Văn Lê, nếu có thể chế đủ mạnh để bảo vệ sự phát triển của doanh nghiệp chân chính, cùng với các chương trình đào tạo thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ doanh nhân, thì nhiều tồn đọng hiện nay đang đè nặng lên khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn có thể được tháo gỡ.

12:15: "Nghị quyết 68 mang tư duy nhân văn trong xử lý vi phạm kinh tế"

Theo Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLaw, Nghị quyết 68 đã đưa ra một số điểm mới quan trọng, bao gồm bổ sung các biện pháp chế tài ở cả ba lĩnh vực: dân sự, hành chính và hình sự.

Cụ thể, nếu doanh nghiệp hoặc doanh nhân có sai phạm về kinh tế, có thể xem xét xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc tài chính, tạo điều kiện để họ khắc phục hậu quả thay vì áp dụng ngay biện pháp hình sự.

Đặc biệt, với những trường hợp có thể xử lý hình sự nhưng hậu quả đã được khắc phục, Nghị quyết cho phép xem xét không khởi tố hình sự.

Vị chuyên gia đánh giá đây là bước tiến mang tính nhân văn, bởi trên thực tế, nhiều sai phạm kinh tế của doanh nhân – nhất là doanh nhân tư nhân – khi bị hình sự hóa sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả doanh nghiệp. Việc cho phép doanh nghiệp sửa sai, khắc phục hậu quả rồi mới xem xét xử lý trách nhiệm tiếp theo là hướng đi rất đáng chú ý.

“Trong các vụ án hình sự hiện nay, nếu bị cáo chủ động khắc phục thiệt hại, cơ quan tố tụng có thể cân nhắc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu hậu quả được khắc phục hoàn toàn thì có nên miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Đây là vấn đề cần được làm rõ và thể chế hóa trong các văn bản pháp luật sắp tới”, ông Hà chia sẻ.

Bên cạnh đó, luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng chỉ ra rằng cần có xác định rõ trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân. Hiện nay, nhiều sai phạm xuất phát từ hành vi của cá nhân nhưng pháp nhân chỉ bị xử phạt nhẹ, chủ yếu là phạt tiền hoặc đóng cửa.

Theo ông Hà, trong thời gian tới, cần sửa đổi luật để tăng cường áp dụng các chế tài đối với pháp nhân thay vì chỉ tập trung vào cá nhân doanh nhân.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà

Về vấn đề thực thi hợp đồng, ông Hà cho hay Nghị quyết 68 đề cao vai trò của tư pháp. Theo vị luật sư, nợ đọng vẫn là vấn đề đáng chú ý tại Việt Nam. Thực tế việc thu hồi công nợ, đặc biệt là các khoản nợ nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, doanh nghiệp bị nợ 100 triệu đồng nhưng nếu thuê luật sư, chi phí có thể lên đến 70 triệu đồng, chưa kể vé máy bay và phí thi hành án. Trong bối cảnh đó, cần nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn – vốn đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự – cho các khoản nợ dưới 100 triệu đồng. Nếu thực hiện tốt, chỉ trong khoảng một tháng, vụ việc có thể được giải quyết dứt điểm.

Mặt khác, sau khi bỏ quy định về đòi nợ thuê, doanh nghiệp gần như không còn công cụ pháp lý phù hợp để thu hồi những khoản nợ nhỏ, dẫn đến tâm lý chấp nhận bỏ qua. Đây là một trong những điểm yếu mà Nghị quyết 68 đã nhận diện và hướng tới cải cách để hỗ trợ doanh nghiệp.

Ông Hà cũng đề cập đến tình huống phổ biến là doanh nghiệp tư nhân bị nợ bởi các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước nhưng rất khó kiện, bởi nếu khởi kiện thì có thể ảnh hưởng đến việc xét thầu trong tương lai. “Muốn văn minh thì phải chấp nhận đưa nhau ra toà, và điều đó không thể là lý do để bị loại khỏi các gói thầu tiếp theo”, ông Hà nói và cho rằng cần có thêm cải cách để bảo vệ doanh nghiệp tư nhân trong các mối quan hệ yếu thế với các cơ quan nhà nước.

Một điểm sáng từ Nghị quyết 68 là tác động tích cực đến các cơ quan hành chính. Ông Hà dẫn chứng từ lĩnh vực sở hữu trí tuệ – nơi được xem là "cửa ngõ" tiếp nhận các thành quả sáng tạo của con người nhưng lại chậm trễ trong việc ứng dụng công nghệ. Nghị quyết đã nêu rõ yêu cầu số hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục.

“Cục Sở hữu trí tuệ hiện đã có những động thái chưa từng có, chủ động liên hệ với các luật sư để cùng thực hiện chiến dịch thúc đẩy cải cách. Đó là ảnh hưởng rất tích cực mà Nghị quyết mang lại, dù chưa cần phải thể chế hóa ngay bằng các văn bản sửa đổi”, ông Hà nhấn mạnh.

Tuy vậy, vị luật sư cũng chỉ ra rằng, Nghị quyết 68 vẫn chưa đề cập đến vai trò của thi hành án – một mắt xích then chốt trong thực thi pháp luật. Thực tế hiện nay là nhiều vụ kiện dù đã thắng án nhưng bên thắng vẫn không thể thu được tiền. Vì vậy, cần có cải cách sâu hơn trong hệ thống tư pháp, đặc biệt là cơ quan thi hành án dân sự.

“Hy vọng rằng, sau Nghị quyết 68 về cải cách thể chế và Nghị quyết 66 về xây dựng pháp luật, chúng ta sẽ có thêm một nghị quyết riêng về cải cách tư pháp để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Bởi tư pháp luôn gắn chặt với phát triển kinh tế – nếu cải cách tư pháp chậm thì cải cách khu vực tư nhân và toàn nền kinh tế cũng sẽ bị chậm theo”, ông Hà bày tỏ.

12:00: Cần mạnh dạn giao việc và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân

Tham gia phiên thảo luận tại tọa đàm, ông Nguyễn Hữu Hùng - Phó chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả, đã nêu kiến nghị về môi trường phát triển và vai trò chiến lược của khu vực tư nhân.

Theo ông, Nghị quyết 68 là văn kiện mang tính đột phá, lần đầu tiên có một nghị quyết không chỉ đưa ra chiến lược tổng thể mà còn đi sâu vào các vấn đề tồn tại trong suốt 40 năm Đổi mới. “Chúng ta có nhiều thành tựu nhưng cũng còn đó những tồn tại lớn. Việc ghi nhận, xác định rõ và tìm cách tháo gỡ là điều rất đáng mừng. Đây là cơ hội để khu vực kinh tế tư nhân được nhìn nhận đúng vai trò, được tạo điều kiện để phát triển”, ông nói.

Đại diện Đèo Cả nhấn mạnh: “Chúng ta có hòa bình là nhờ sự hy sinh của cha ông. Nhưng trong thời bình, nhiệm vụ lớn nhất chính là phát triển kinh tế”. Theo ông, mỗi doanh nhân trên thương trường đều là một “chiến sĩ”, dù có thể hào nhoáng ở bề nổi, nhưng cũng có không ít người “ngã xuống” bởi những khó khăn, rủi ro, áp lực lớn từ thực tế.

Nghị quyết 68 đã thể hiện rõ vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong công cuộc phát triển. Tuy nhiên, ông cho rằng ngoài sự ủng hộ từ Đảng, Nhà nước thì bản thân doanh nghiệp cũng phải thay đổi, chủ động đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, quản trị, văn hóa và chiến lược phát triển.

Dẫn chứng từ chính chặng đường 40 năm của Đèo Cả – một trong những đơn vị tiên phong trong mô hình hợp tác công tư (PPP) – ông Hùng cho biết thành công lớn nhất đến từ khả năng kết hợp công nghệ và cách tiếp cận dự án hiện đại. “Nếu chỉ là một nhà đầu tư đơn thuần, chúng tôi đã không thể làm được các dự án quy mô như hầm Hải Vân 1, hầm Đèo Cả... Việc tiếp cận và làm chủ công nghệ của Nhật Bản giúp chúng tôi tiết kiệm tới 4.000 tỷ đồng. Điều đó mở ra cơ hội nội địa hóa công nghệ, tiến tới tự chủ trong các lĩnh vực như đào hầm hay đường sắt tốc độ cao”.

Ông Nguyễn Hữu Hùng

Từ đó, ông Hùng đề nghị: “Chúng ta phải mạnh dạn giao việc và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân. Không nên để các tập đoàn lớn chi phối hết cơ hội, bởi nếu các doanh nghiệp nhỏ, nhất là ở địa phương, không được trao cơ hội, thì sau này đất nước sẽ thiếu vắng lực lượng thực thi dự án quan trọng”.

Nhìn từ góc độ doanh nghiệp, đại diện Đèo Cả nêu một loạt kiến nghị nhằm tạo dựng một môi trường phát triển lành mạnh, bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân.

Thứ nhất, ông nhấn mạnh tới việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp: “Không chỉ lo cho cổ đông hay người lao động, doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm với cộng đồng và đất nước. Tư nhân muốn được nhìn nhận là một thành phần kinh tế chủ lực thì phải thể hiện được văn hóa trách nhiệm”.

Thứ hai, cần phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; theo ông, đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tạo ra đột phá, bứt khỏi “vùng an toàn”. Nếu thiếu tinh thần này, nền kinh tế sẽ thiếu động lực đổi mới.

Thứ ba, ông Hùng đặt vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực: “Chúng ta nói rất nhiều về hạ tầng, nhưng ai sẽ là người vận hành các công trình ấy? Nếu không có chuẩn bị dài hạn về đào tạo nhân lực cho từng ngành, từng vùng thì rất khó đi đến đích”. Ông cho rằng, các định hướng phát triển quốc gia phải đi kèm chiến lược nhân lực bài bản, bắt đầu từ bậc đào tạo.

Thứ tư, ông Hùng kêu gọi tư duy đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh rằng sự khác biệt chỉ đến từ những cách nghĩ táo bạo, có cơ sở, có tầm nhìn, chứ không phải hành động liều lĩnh. “Chúng ta phải tạo ra sản phẩm, dịch vụ vượt trội bằng trí tuệ và công nghệ – không đi sau, không làm theo”, ông nói.

Cuối cùng, đại diện Đèo Cả cho rằng chính doanh nghiệp cũng cần soi lại mình, học cách tinh gọn bộ máy, nâng cao năng suất. “Nhìn vào bộ máy nhà nước, chúng ta thấy yêu cầu cải cách rất lớn, nhưng ngay cả doanh nghiệp cũng không ngoại lệ. Không thể quản trị bằng kinh nghiệm hay cảm tính mãi, chúng ta cần ứng dụng công nghệ để hiện đại hóa mô hình vận hành”.

Ông kết luận, từ nghị quyết đến hành động là một chặng đường dài, nhưng nếu không bắt tay vào việc thì mọi kế hoạch chỉ nằm trên giấy. “Đừng để động lực chỉ là lời hô hào. Kinh tế tư nhân cần không gian, cần niềm tin và quan trọng nhất – cần hành động cụ thể để cùng đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới”.

11:51: Cần xem xét lại sự ưu tiên về thủ tục hành chính, kỹ thuật và những rào cản vô hình trong tiếp cận đất đai

TS. Nguyễn Quốc Việt, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, nêu mối băn khoăn: Làm sao để sau Nghị quyết 68, kinh tế tư nhân có thể thực sự cất cánh và trở thành động lực phát triển của đất nước? Theo ông, đây không chỉ là câu hỏi mang tính thực tiễn mà còn là một bài toán lý luận cần lời giải rõ ràng.

Ông Việt cho hay khu vực kinh tế tư nhân từ các doanh nghiệp lớn cho đến hộ kinh doanh cá thể muốn vươn lên cần có những động lực thực chất. Đó không chỉ là khẩu hiệu hay tinh thần khuyến khích, mà là những chính sách cụ thể, chạm đến tận gốc các rào cản đang tồn tại.

Chẳng hạn, chính sách đất đai, chính sách nông nghiệp, hay quyền tham gia của hộ kinh doanh cá thể vào các cụm công nghiệp nếu vẫn duy trì mô hình cụm công nghiệp kiểu cũ, sẽ rất khó tạo ra đột phá. Bởi lẽ, khoảng cách giữa các doanh nghiệp nhỏ và các "ông lớn" đã chiếm lĩnh những vị trí thuận lợi là quá lớn.

Báo cáo Kinh tế thường niên năm nay cũng cho thấy rõ điều đó: cần nhìn nhận lại vai trò của đất đai - một trong những yếu tố sống còn, dưới góc nhìn của khu vực tư nhân. Theo ông Việt, cần xem xét lại sự ưu tiên về thủ tục hành chính, kỹ thuật và nhất là những rào cản vô hình trong tiếp cận nguồn lực này.

Nguồn vốn cũng là một điểm nghẽn đáng lưu ý. Ông Việt chỉ ra: hiện có đến 20% tín dụng đổ vào bất động sản, một tỷ lệ tương đương cho tiêu dùng, trong khi gần như toàn bộ tín dụng phục vụ sản xuất lại thuộc về khu vực tư nhân. Câu hỏi đặt ra là: nếu tín dụng được xem là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng, thì dòng chảy hiện tại liệu có thực sự hợp lý?

Ông nhấn mạnh: “Cần nhìn lại dòng tín dụng đó có tạo ra sản xuất thực, tiêu dùng thực hay không? Hay đang bị nghẽn ở cả đầu cung và đầu cầu"?

Theo ông, kết nối giữa tín dụng và nhu cầu thực tế của thị trường là điều còn thiếu và cần được tháo gỡ.

TS. Nguyễn Quốc Việt,

Nhìn ra khu vực, ông Việt nhận định: tăng trưởng của ASEAN hai năm gần đây chủ yếu nhờ vào đầu tư tư nhân và tiêu dùng tư nhân, đặc biệt sau đại dịch COVID-19. Trong khi đó, ở Việt Nam, mối liên kết giữa sản xuất, đầu tư và tiêu dùng vẫn còn lỏng lẻo, thiếu những cơ chế kết nối hiệu quả.

Thực tế cho thấy, việc doanh nghiệp tiếp cận vốn để đổi mới sản xuất vẫn rất khó khăn. Do đó, ông cho rằng cần sớm thiết lập các chuẩn mực và thể chế vững chắc, tạo điều kiện để sản phẩm của doanh nghiệp có thể “lên được kệ”, từ đó nối liền chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu dùng.

Một thách thức không kém phần quan trọng khác được ông nhấn mạnh là ứng dụng khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) yếu tố có thể ảnh hưởng đến hàng triệu lao động.

Theo ông, AI và công nghệ đang dần trở thành hạt nhân trong các mô hình sản xuất công nghiệp mới. Tuy nhiên, hiện chúng ta đang có nhiều nghị quyết (như Nghị quyết 57, 66, 68), nhưng việc thiếu tích hợp và thống nhất giữa các chính sách đang khiến bài toán năng suất và đổi mới công nghệ khó có lời giải.

Ông kết luận: “Trong hệ sinh thái tương lai, AI sẽ giữ vai trò trung tâm. Nhưng để làm được điều đó, chúng ta cần một chiến lược tổng thể, đồng bộ, chứ không thể tiếp tục đi theo kiểu phân mảnh như hiện nay".

11:16: Cần có thêm một nghị quyết về công nghiệp và một nghị quyết về giáo dục

Luật sư Trần Hữu Huỳnh, nguyên Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng trong thời gian ngắn, chúng ta đã ban hành tới bốn nghị quyết quan trọng – trong đó có Nghị quyết 68 – thể hiện quyết tâm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân.

Tuy nhiên, theo ông, điều cần thiết hiện nay là tư duy phát triển phải mang tính hệ thống và đồng bộ. “Bên cạnh 'bộ tứ nghị quyết' đã được ban hành, tôi cho rằng cần phải có thêm một nghị quyết về công nghiệp và một nghị quyết về giáo dục để tạo nên ‘bộ lục nghị quyết’. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể định hình một chiến lược phát triển toàn diện và bền vững cho đất nước”, ông Huỳnh nhấn mạnh.

Ngoài ra, cũng như nhiều chuyên gia khác, ông Huỳnh nhận định tắc nghẽn thể chế vẫn là điểm nghẽn lớn nhất đối với sự phát triển – một vấn đề đã được nêu ra suốt hơn 20 năm qua nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ một cách thực chất.

“Chúng ta nói nhiều đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và xây dựng xã hội dân chủ. Nhưng ba trụ cột đó đã thực sự trở thành 'chân kiềng' vững chắc hay chưa? Nếu thực sự là chân kiềng, nó sẽ hỗ trợ cho thể chế như thế nào? Đây là những câu hỏi cần phải được bàn luận một cách rõ ràng và đến nơi đến chốn".

Theo ông, việc cấp bách lúc này là phải kiện toàn lại bộ máy, cải tiến quy trình xây dựng và thực thi chính sách – theo hướng vừa đảm bảo tính tuân thủ, vừa đề cao tính linh hoạt và khả năng phản ứng chính sách.

“Chúng ta không thể tiếp tục chỉ dừng ở khẩu hiệu hay tổng kết. Ví dụ như Nghị quyết 57 đã nêu ra tới 142 điều cần làm, rất cụ thể và thiết thực. Vậy với Nghị quyết 68, có bao nhiêu điều tương tự? Một điều quan trọng nữa là phải chỉ rõ biện pháp thực hiện, ai là người làm và ai là người chịu trách nhiệm. Nếu không, 10 năm nữa, chúng ta lại tiếp tục bàn về những ‘nút thắt thể chế’ như bây giờ”, ông nhấn mạnh.

Cuối cùng, Luật sư Trần Hữu Huỳnh đề xuất Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tái bản đặc san Toàn cảnh Kinh tế tư nhân - một ấn phẩm mà ông cho là “rất giá trị và cần được lan tỏa rộng rãi trong bối cảnh hiện nay”.

Luật sư Trần Hữu Huỳnh

11:10: Không có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân, không thể đạt được mục tiêu chiến lược về khoa học công nghệ

Phát biểu tại phần thảo luận, PGS.TS Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, bày tỏ sự nhất trí cao đối với các tham luận tại tọa đàm, đặc biệt là các ý kiến xoay quanh nhận thức về thể chế tư nhân.

“Phải khẳng định rằng, kinh tế tư nhân cũng mang định hướng XHCN, chứ không phải chỉ kinh tế nhà nước và trong nền kinh tế của chúng ta, tất cả các khu vực đều mang định hướng XHCN. Sở dĩ như vậy là vì kinh tế tư nhân, các chủ doanh nghiệp đều sinh ra trong thời kỳ thống nhất đất nước, chứ không phải chế độ cũ”, ông Lĩnh nhấn mạnh.

Vị chuyên gia cũng dẫn lại những con số ấn tượng được TS Lê Duy Bình nêu ra: khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 50% GDP, chiếm 82% lực lượng lao động, với mục tiêu trong tương lai là đạt 60% GDP và 86% lao động, chưa kể đến những đóng góp trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và các ngành then chốt khác.

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh cũng lấy ví dụ về Trung Quốc, nơi kinh tế tư nhân đóng góp tới 70% hoạt động khoa học công nghệ. Theo vị chuyên gia, người Trung Quốc xác định rõ vai trò của kinh tế tư nhân như một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế trong định hướng xã hội chủ nghĩa.

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh

Tương tự, với Việt Nam, cũng cần xoá bỏ các rào cản nhận thức, rào cản tâm lý trong xã hội. “Còn về thể chế, đúng như TS Lê Xuân Nghĩa nói, không phải thể chế cho kinh tế tư nhân mà là thể chế cho kinh tế thị trường định hướng XHCN. Muốn phát triển kinh tế tư nhân thì phải đặt trong tổng thể cải cách kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó có tương quan giữa các bộ phận khác của nền kinh tế”

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa kinh tế tư nhân và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề không nằm ở các chính sách riêng biệt cho khu vực tư nhân, mà là ở toàn bộ cấu trúc thể chế kinh tế. Rào cản lớn nhất chính là tư duy thể chế hiện tại, chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn kinh tế.

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa kinh tế tư nhân và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề không nằm ở các chính sách riêng biệt cho khu vực tư nhân, mà là ở toàn bộ cấu trúc thể chế kinh tế. Rào cản lớn nhất chính là tư duy thể chế hiện tại, chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn kinh tế.

Đề cập đến vai trò của khu vực tư nhân trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ông nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường và phát triển khoa học công nghệ là ba động lực then chốt, phải được gắn kết chặt chẽ với nhau trên nền tảng kinh tế thị trường. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những đột phá thực sự".

Ông dẫn chứng Nghị quyết 68 đã xác định rõ kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong trong thực hiện thành công Nghị quyết 57 – một động lực thể chế quan trọng để thúc đẩy các chính sách phát triển kinh tế nói chung và công nghệ nói riêng. Ngay cả mục tiêu đầu tư 2% GDP cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước – vốn hiện mới đáp ứng khoảng 0,8%. Phần còn lại phải đến từ xã hội, trong đó doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chủ đạo. Nếu không có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực này, mục tiêu chiến lược về khoa học công nghệ sẽ không thể đạt được.

“Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa rằng nhà nước không chỉ nên huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, mà còn cần chủ động hỗ trợ họ bằng nguồn lực công, đồng thời tạo điều kiện cho họ tiếp cận các nguồn lực quốc gia. Trước đây, ngân sách chủ yếu tài trợ cho khu vực công, trong khi Nghị quyết 68 đã chỉ rõ rằng cần 'cởi trói' để khu vực tư nhân có thể tiếp cận các nguồn lực này".

Ông cũng nhấn mạnh vai trò của chính sách công nghiệp – không đơn thuần là chính sách theo thành phần kinh tế, mà là định hướng ưu tiên quốc gia: “Chính sách công nghiệp là kim chỉ nam. Nếu không có chính sách rõ ràng thì chẳng khác nào bảo mọi người cùng lên sàn nhảy, nhưng không ai biết đang nhảy điệu gì – nhảy một lúc thì không còn biết đang nhảy gì nữa".

Theo ông, chính sách công nghiệp không phân biệt khu vực công hay tư, mà tập trung vào việc xác định lực lượng nào làm tốt thì được tham gia. Ví dụ như công nghiệp bán dẫn hay các lĩnh vực công nghệ chiến lược được nêu trong Nghị quyết 57 – miễn là ai làm tốt thì cần được trao cơ hội, nhà nước phải hỗ trợ bằng chính sách rõ ràng và thiết thực.

Ông dẫn lại thực tiễn toàn cầu để nhấn mạnh luận điểm: “Ngay cả Google hay Apple cũng từng nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ nhà nước. Không phải vì họ là tư nhân, mà vì họ phù hợp với chính sách phát triển ngành. Trên thế giới, các tập đoàn công nghệ lớn, các kỳ lân đều là doanh nghiệp tư nhân, bởi họ là lực lượng năng động nhất, dẫn dắt đổi mới và thúc đẩy cạnh tranh thị trường".

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh kỳ vọng chính khu vực này sẽ tạo ra những đột phá thực sự trong tương lai. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn chỉ ra rằng thể chế xã hội hiện nay vẫn đang kìm hãm sự phát triển của khu vực tư nhân. “Chúng ta vẫn còn tâm lý e dè, thậm chí ghét bỏ người giàu. Tư duy này cần được thay đổi. Chúng ta từng là một xã hội tiểu nông, phong kiến, thuộc địa – vì vậy, muốn phát triển, phải đổi mới sâu sắc cả về thể chế chính trị lẫn tâm lý xã hội".

10:50: Cần khơi thông nguồn vốn một cách thực chất và hiệu quả cho kinh tế tư nhân

Theo PGS.TS Nghiêm Thị Thà, Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò chủ lực trong nền kinh tế Việt Nam.

Niên giám thống kê năm 2023 cho biết cả nước có hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân, 5,1 triệu hộ kinh doanh và 3.200 hợp tác xã đang hoạt động, đóng góp trên 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động. Nhiều doanh nghiệp như Vingroup, FPT, Vinamilk đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu tại thị trường khu vực và toàn cầu.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang phục hồi mạnh mẽ, phát triển kinh tế tư nhân trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm tạo động lực tăng trưởng mới. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.”

Tuy nhiên, để khu vực này phát triển bền vững, vấn đề then chốt hiện nay là phải khơi thông các dòng vốn – cả ngắn hạn và dài hạn – một cách thực chất và hiệu quả.

Về nguồn vốn ngắn hạn, khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm khoảng 50% tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng, tương đương gần 7 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn phải chịu mức lãi suất vay thương mại dao động 9% – 11%/năm, cao hơn mặt bằng chung trong khu vực ASEAN (6% – 7%/năm).

Khó khăn lớn nằm ở khả năng tiếp cận tín dụng, đặc biệt đối với các hộ kinh doanh cá thể. Theo khảo sát của VCCI năm 2023, có đến 45% doanh nghiệp nhỏ và vừa cho biết gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng do thiếu tài sản đảm bảo hoặc không đáp ứng được yêu cầu hồ sơ tài chính. Dù Nghị định 13/2023/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm Fintech trong ngân hàng đã có hiệu lực, nhưng kết quả triển khai vẫn còn hạn chế.

Ở góc độ vốn dài hạn, khu vực tư nhân Việt Nam mới chỉ huy động được khoảng 13% vốn qua thị trường chứng khoán – con số khiêm tốn so với mức 40% – 60% ở các nước phát triển. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm cũng còn ít, chỉ khoảng 30 quỹ đang hoạt động và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghệ, trong khi các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, logistics vẫn “khát vốn”.

Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án đối tác công tư (PPP) cũng rất thấp, chỉ chiếm khoảng 5% tổng số dự án công trong giai đoạn 2016–2023, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Thực tế trên cho thấy, việc huy động vốn cho khu vực kinh tế tư nhân hiện còn vướng nhiều điểm nghẽn. Thứ nhất là thiếu đa dạng về kênh huy động vốn, khi phần lớn vẫn phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Thứ hai là hệ thống pháp lý liên quan đến tài chính và đầu tư tư nhân còn thiếu đồng bộ, đặc biệt chưa có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và tư nhân.

PGS.TS Nghiêm Thị Thà

Thứ ba, chính sách khuyến khích đầu tư tài chính dài hạn và vốn mạo hiểm chưa đủ hấp dẫn. Cuối cùng, việc thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và công cụ đánh giá năng lực tài chính khiến các doanh nghiệp tư nhân khó tạo được niềm tin với nhà đầu tư.

Trước những thách thức đó, một loạt giải pháp được đề xuất nhằm cải thiện môi trường tài chính cho khu vực tư nhân. Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tài chính, thông qua việc xây dựng luật hoặc nghị định riêng về tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần sửa đổi các luật liên quan như Luật Hỗ trợ DNNVV 2017, bổ sung cơ chế bảo lãnh tín dụng, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

Một đề xuất đáng chú ý là thành lập Quỹ Phát triển tài chính tư nhân quốc gia nhằm cung cấp tín dụng ưu đãi dài hạn.

Bên cạnh đó, cần phát triển các kênh huy động vốn đa dạng hơn. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế là một hướng đi khả thi – điển hình như Trung Nam Group đã phát hành thành công hơn 3.000 tỷ đồng trái phiếu xanh cho dự án năng lượng tái tạo tại Ninh Thuận.

Nhà nước cũng cần khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư tư nhân theo mô hình “matching fund” – đối ứng giữa nguồn vốn công và tư, tương tự như Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia.

Đặc biệt, cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo gồm trung tâm ươm tạo, quỹ thiên thần, dịch vụ tư vấn pháp lý – tài chính và ứng dụng công nghệ tài chính như P2P lending, eKYC, gọi vốn cộng đồng một cách hiệu quả và có kiểm soát.

Hợp tác công – tư (PPP) cũng là một trụ cột quan trọng. Cần rà soát lại Luật PPP và các nghị định hướng dẫn để đơn giản hóa thủ tục lựa chọn nhà đầu tư tư nhân. Dự án cao tốc Bắc – Nam đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt đã chứng minh nếu có cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng thì PPP hoàn toàn có thể thành công.

Ngoài hạ tầng giao thông, cần thí điểm PPP trong các lĩnh vực xã hội thiết yếu như giáo dục, y tế và xử lý nước thải với quy mô phù hợp.

Một khía cạnh không thể bỏ qua là nâng cao năng lực tài chính và quản trị cho khu vực tư nhân. Theo ADB, chỉ 21% DNNVV tại Việt Nam có hệ thống kế toán theo chuẩn mực quốc tế – yếu tố khiến họ khó tiếp cận vốn quốc tế. Trong 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể hiện nay, chỉ có 2,1 triệu hộ đóng thuế, còn lại 3 triệu hộ chưa có đóng góp vào ngân sách. Việc chuyển đổi các hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc hợp tác xã cần được hỗ trợ thông qua các hiệp hội nghề nghiệp. Chương trình SME Link của USAID kết hợp với VCCI là một ví dụ điển hình, khi đã giúp hơn 500 doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ tín dụng đạt chuẩn, tiếp cận hơn 1.000 tỷ đồng vốn vay chỉ trong năm 2023.

“Tóm lại, việc huy động hiệu quả các nguồn lực tài chính, cả ngắn hạn lẫn dài hạn, chính là nền tảng để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững. Để thực hiện được điều này, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa nhà nước, hệ thống tài chính – ngân hàng, các nhà đầu tư và bản thân các doanh nghiệp tư nhân.

Trong bối cảnh Nghị quyết 68 đã xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất, khơi thông các dòng vốn cho khu vực này không chỉ là yêu cầu cấp bách, mà còn là chiến lược then chốt để phát triển kinh tế quốc gia trong giai đoạn mới”, PGS.TS. Nghiêm Thị Thà cho biết.

10:30: "Nghị quyết 68 tạo nền tảng cho nền kinh tế bước vào và duy trì quỹ đạo tăng trưởng cao trong nhiều năm tới"

TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, cho hay nhìn lại quá trình từ Đổi mới đến nay, khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp vô cùng mạnh mẽ. Hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp và cá thể kinh doanh đã tạo nên một lực lượng kinh tế lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh chóng của đất nước.

Nếu không có sự đóng góp đó, chắc chắn chúng ta sẽ không thể đạt được tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Kinh tế tư nhân đã góp phần tạo ra những dấu ấn đặc biệt về sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với các tiến bộ xã hội, các yếu tố xã hội, bình đẳng, môi trường, sinh thái.

“Ví dụ cụ thể nhất là tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 1,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2024, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong số các quốc gia đang phát triển”, ông Bình nói.

Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện, đạt 0,73 điểm năm 2023, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập và nằm trong top 5 trong khu vực ASEAN. Những con số và thực tế này cho thấy kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng cho định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.

TS Lê Duy Bình

Một góc nhìn khác, theo ông Bình, khi xét về đặc trưng của mô hình XHCN là “dân giàu, nước mạnh”, chúng ta có thể thấy vào năm 2024, GDP bình quân đầu người của nước ta đạt 4.700 USD, tiếp cận ngưỡng thu nhập trung bình cao. Mức thu nhập này cao gấp 50 lần so với thời điểm năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới.

“Hiện nay tầng lớp trung lưu, tức là những người có mức chi tiêu bình quân đầu người 11 - 110 USD/ngày, đang hình thành nhanh chóng ở các đô thị lớn, hiện chiếm khoảng 13% dân số và sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026. Dự báo trong 25 năm tới, một nửa dân số nước ta sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu”, ông Bình khẳng định.

Theo thống kê của Tạp chí Forbes (Mỹ), Việt Nam hiện có khoảng 5-6 tỷ phú USD. Kinh tế tư nhân đã góp phần giúp chúng ta dần dần hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu”. Kinh tế tư nhân cũng đóng góp cho mục tiêu “nước mạnh”. Từ góc độ kinh tế, nước mạnh có thể được nhìn nhận từ góc độ giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam, khi giá trị này cho tới nay đạt 507 tỷ USD, xếp hạng 32 thế giới.

Kinh tế tư nhân, theo ông Bình, không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng hệ thống an sinh xã hội, mở rộng độ bao phủ bảo hiểm, tính đến cuối năm 2024, có tới 19 triệu người lao động tư nhân tham gia BHXH.

Sự đóng góp của khu vực này vào ngân sách là rất lớn, là điều kiện để nhà nước thực hiện nhiều chương trình vì dân như y tế miễn phí, giáo dục, hỗ trợ người yếu thế.

Một cách ngắn gọn, ý nghĩa của Nghị quyết 68 không chỉ nằm ở mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân, tạo nền tảng cho nền kinh tế bước vào và duy trì quỹ đạo tăng trưởng cao trong nhiều năm tới, mà còn ở sự khẳng định kinh tế tư nhân không mâu thuẫn với con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng XHCN. Nếu được phát triển đúng hướng, đây sẽ là một động lực vô cùng quan trọng để phát huy định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường và hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

10:10: Đã đến lúc cần trả doanh nghiệp tư nhân về đúng vị trí mà họ xứng đáng được hưởng

TS Bùi Thanh Minh - Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với những quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa. Theo ông, các chia sẻ tại diễn đàn đã góp phần soi sáng thêm nhiều khía cạnh lý luận quan trọng, đặc biệt là khi đội ngũ xây dựng Nghị quyết 68 phải chịu áp lực rất lớn.

Sức ép này, theo ông Minh, một phần đến từ cái bóng quá lớn của Nghị quyết 57 – một văn bản được đánh giá là thành công và tạo tiếng vang, nhưng đến khâu thực thi lại gặp thách thức. Làm thế nào để triển khai 142 đầu việc cụ thể là một bài toán nan giải.

Ông chia sẻ rằng, khi Ban Chiến lược bắt đầu phối hợp với Ban IV để xây dựng Nghị quyết, ban đầu trong văn bản chưa có chữ “một” mà chỉ nêu: “động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng”.

Nhưng vì sao lại là "quan trọng nhất"? Ông Minh lý giải rằng khu vực kinh tế nhà nước đã gần chạm trần với tỷ trọng khoảng 20% và gần như không tăng thêm. Trong khi đó, khu vực FDI cũng đạt đỉnh từ năm 2019 với tỷ trọng 22% và gần như đứng yên từ đó đến nay, bởi lẽ phần lớn chỉ tham gia vào hoạt động gia công, thâm dụng lao động và thâm dụng vốn lớn. Nếu muốn tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, thì phải chuyển mình sang những lĩnh vực như bán dẫn, AI. Nhưng đây là hành trình khó khăn khi chúng ta đi sau thế giới tới 50 năm.

“Vì thế, Nghị quyết 68 được xây dựng với một cách tiếp cận khác biệt: liên tục đối thoại với doanh nghiệp, doanh nhân để mang vào “tiếng nói từ thực tiễn”, ông Minh nhấn mạnh.

Nói về bối cảnh ra đời của Nghị quyết 68, ông Bùi Thanh Minh gọi đây là “Đổi mới 2.0”. Nếu Đổi mới năm 1986 đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và thiết lập nền tảng phát triển, thì nay, mục tiêu không chỉ dừng ở thu nhập trung bình mà là đạt ngưỡng thu nhập cao vào năm 2045.

Để hiện thực hóa mục tiêu đó, tăng trưởng GDP năm nay phải đạt 8% và từ năm 2026 phải đạt 10% – một mục tiêu đầy tham vọng. Bởi lẽ, quy mô nền kinh tế càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng khó duy trì ở mức cao. Nếu không đạt tối thiểu 6,6% mỗi năm, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Trong lịch sử, rất ít quốc gia duy trì được mức tăng trưởng hai con số trong thời gian dài, ngoại trừ những mô hình Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản – nhưng giờ đây đã không phù hợp.

TS Bùi Thanh Minh

Ông Minh thẳng thắn nhìn nhận, nếu không có Nghị quyết 57, không có tư duy đổi mới sáng tạo thì Việt Nam không có cánh cửa nào để bước lên nấc thang phát triển tiếp theo. “Tuy nhiên, đâu đó chúng ta đã quá hài lòng, sống thoải mái trong suốt 30 năm, kể từ năm 1995 đến nay”, ông Minh đặt vấn đề.

Theo vị chuyên gia, nền kinh tế phần nào đã “ngủ quên” trong thành công, sống tương đối thoải mái. Nhưng ở giai đoạn phát triển mới, chỉ có nâng cao hiệu quả và thúc đẩy đổi mới sáng tạo mới là con đường khả thi. Và cũng vì vậy, Nghị quyết 57 ra đời, đặt nền móng cho sự chuyển mình của khu vực tư nhân.

Về Nghị quyết 68, ông Minh nhấn mạnh, đây không phải là câu chuyện ưu tiên khu vực tư nhân, mà là vấn đề về luật chơi – khu vực này chỉ cần được tự do và bình đẳng để làm tốt công việc của mình. Ông ví von, một doanh nhân cũng giống như người lái xe: họ muốn đi xa, đi nhanh, đi an toàn, cái họ sợ không phải là ổ gà, lúc đó họ có thể giảm tốc. Một thực tế được chỉ ra: nhiều doanh nghiệp tư nhân trong nước, khi phát triển đến một mức độ nhất định, lại chọn chuyển thành doanh nghiệp FDI để được hưởng ưu đãi. Điều này bắt nguồn từ tâm lý “tiếp khách”, tiếp đón nhà đầu tư ngoại nồng nhiệt hơn doanh nghiệp nội.

“Đã đến lúc cần trả doanh nghiệp tư nhân về đúng vị trí mà họ xứng đáng được hưởng trong nền kinh tế”, ông Bùi Thanh Minh nhấn mạnh.

Ông Minh cho biết sắp tới sẽ có các nghị quyết quan trọng khác liên quan đến nhân lực và chính sách công nghiệp. Dù hạ tầng, thể chế và nhân lực đều là điểm nghẽn, nhưng chính sách công nghiệp mới là mấu chốt. Nếu không đặt Nghị quyết trong tổng thể chiến lược này thì khó có thể tối ưu hoá nguồn lực. Khi sáp nhập các cơ quan, ông Minh cho rằng cần tạo không gian để từng địa phương xác định ngành mũi nhọn, cũng như phát huy năng lực cạnh tranh theo từng vùng.

Bên cạnh đó, ông chỉ ra thực trạng đáng lưu tâm: trong khi Nhật Bản vay vốn với lãi suất 1% – 2%, thì Việt Nam phải trả 6% – 7%, rất khó cạnh tranh. Nhưng ông Minh không cho rằng tình hình quá bi quan. Theo ông, đây là giai đoạn “không chậm nhưng cũng không nhanh” – và Việt Nam cần có thời gian để thích ứng. Quan trọng là giữ có thái độ phù hợp: không bi quan cho rằng ta đang bị tụt lại, nhưng cũng không lạc quan đến mức chủ quan rằng ta sẽ bứt phá dễ dàng.

Vị chuyên gia cho hay, khi thiết kế Nghị quyết 68, Ban IV theo đuổi hai tư duy cốt lõi: tư duy “cởi trói” và tư duy “phát triển”. Ở tư duy cởi trói, mục tiêu là giải quyết các “căn bệnh” cố hữu như đất đai, vốn, hay cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp tư nhân với các nhóm thân hữu. Còn ở tư duy phát triển, các doanh nghiệp được phân cấp theo ba nhóm: doanh nghiệp dẫn dắt gắn với bài toán quốc gia, doanh nghiệp tiên phong, và các doanh nghiệp nhỏ.

Một điểm đặc biệt nữa là Việt Nam thúc đẩy các hộ kinh doanh bước ra khỏi vùng an toàn để trở thành lực lượng doanh nghiệp thực thụ. Theo ông, có 5 chuyển động cần thiết trong thực thi, trong đó trao quyền cho các chủ thể liên quan là then chốt.

“Đây là thời điểm vô cùng quan trọng để đổi mới – một cuộc đổi mới toàn diện từ tư duy đến hành động. Nếu Việt Nam muốn trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, thì nghị quyết không thể chỉ nằm trên giấy. Với một dân tộc từng là anh hùng trong chiến tranh, thông minh trong thời bình, không lý do gì Việt Nam không thể vươn lên top 15 nền kinh tế mạnh – miễn là chúng ta đủ khát vọng và hành động xứng đáng với hy sinh của cha ông”, ông Minh kết luận.

9:47: Phát triển kinh tế tư nhân: Cốt lõi là chất lượng thể chế và chất lượng của chính phủ

Phát biểu tại tọa đàm, TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, đánh giá kinh tế tư nhân ở Việt Nam cho thấy đang tồn tại nhiều hạn chế sâu sắc.

Lý giải điều này, ông Nghĩa cho biết, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 ước đạt khoảng 400 tỷ USD, trong đó khu vực FDI chiếm tới 300 tỷ USD, khu vực trong nước chỉ đạt khoảng 100 tỷ USD. Đáng chú ý, trong 100 tỷ USD này, khoảng 50 tỷ USD đến từ khu vực nông nghiệp.

“Nền công nghiệp Việt Nam là một 'nền công nghiệp zero'. Nói cách khác, đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghiệp là rất hạn chế, gần như bằng không”, ông Nghĩa nói.

Điều này đặt ra câu hỏi: phải chăng nguyên nhân chính là do Việt Nam chưa thực sự coi trọng khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua? Theo ông Nghĩa, câu trả lời không hẳn đơn giản như vậy. Bởi thực tế, nhiều quốc gia Đông Nam Á – nơi mà nền kinh tế gần như 100% dựa vào khu vực tư nhân – cũng rơi vào tình trạng yếu kém tương tự. Họ cũng coi trọng kinh tế tư nhân, nhưng hiệu quả phát triển vẫn không cao.

“Điều đó cho thấy vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở việc có coi trọng kinh tế tư nhân hay không, mà là ở chất lượng thể chế và chất lượng của chính phủ. Một thể chế yếu kém, dù có ủng hộ kinh tế tư nhân, vẫn không thể tạo ra một môi trường thuận lợi để khu vực này phát triển hiệu quả. Sự yếu kém không đơn thuần là do thiếu quan tâm đến kinh tế tư nhân, mà chủ yếu xuất phát từ nền tảng quản trị quốc gia còn chưa đạt yêu cầu”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

TS Lê Xuân Nghĩa

Ông Nghĩa cho rằng Nghị quyết 68 là một văn kiện quan trọng, thể hiện chủ trương thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, không thể kỳ vọng chỉ nhờ một nghị quyết mà kinh tế Việt Nam sẽ đột phá. Nếu thể chế và bộ máy chính phủ không thực sự chuyển biến về chất lượng, Việt Nam có thể đi vào vết xe đổ của các nước Đông Nam Á – nơi từng kỳ vọng lớn vào khu vực tư nhân nhưng lại không đạt được thành công.

Trong khi đó, sự so sánh giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á là rất đáng lưu ý: các quốc gia Đông Bắc Á thành công bao nhiêu thì các nước Đông Nam Á thất bại bấy nhiêu. Những "rồng con" từng được kỳ vọng ở Đông Nam Á cuối cùng cũng dần thất bại – cho thấy rõ ràng rằng thể chế và chất lượng điều hành quốc gia mới là yếu tố quyết định thành – bại.

Theo TS Lê Xuân Nghĩa, một trong những thất bại lớn của 4 quốc gia Đông Nam Á là thất bại về cấu trúc tài chính. Các nước này đã tư nhân hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng và gắn liền với bất động sản. Hệ quả là rất nhiều ngân hàng nhỏ ra đời, cạnh tranh khốc liệt để huy động vốn, chủ yếu đổ dồn vào lĩnh vực bất động sản. Sự cạnh tranh gay gắt này khiến mặt bằng lãi suất bị đẩy lên rất cao, lên tới 12% - 15%. Với mức lãi suất như vậy, không một nền công nghiệp non trẻ nào có thể trụ vững. Lãi suất cao đã bóp nghẹt các doanh nghiệp sản xuất và làm lệch lạc ưu tiên phát triển của nền kinh tế.

Không chỉ tín dụng ngân hàng, ngay cả kênh trái phiếu doanh nghiệp cũng chủ yếu phục vụ bất động sản. Cũng có những doanh nghiệp tiên phong phát hành trái phiếu ngoài lĩnh vực bất động sản, song thực tế, các doanh nghiệp này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

“Cấu trúc tài chính của Việt Nam hiện nay cũng mang ‘dáng dấp’ tương tự các nước Đông Nam Á – quá tập trung vào bất động sản. Nếu muốn xây dựng một nền kinh tế dựa trên công nghiệp hiện đại và bền vững, chúng ta cũng phải chuyển hướng, ưu tiên rõ ràng cho sản xuất – công nghiệp”, ông Nghĩa nói.

Vấn đề thứ hai nằm ở chỗ: doanh nghiệp tư nhân Việt Nam không có nguồn lực tài chính để đầu tư cho khoa học – công nghệ. Trong khi đó, tại các quốc gia như Mỹ, Đài Loan, Nhật Bản… chính phủ đóng vai trò chủ lực trong việc tài trợ kinh phí nghiên cứu và phát triển cho khu vực tư nhân.

Theo vị chuyên gia này, chính nhờ sự hậu thuẫn này, các doanh nghiệp mới có thể tạo ra đột phá công nghệ và từ đó thúc đẩy công nghiệp hóa. Nhật Bản là ví dụ điển hình. Trong ba gói kích thích kinh tế lớn gần đây, có một gói trị giá tới 70 tỷ USD được rót trực tiếp vào khu vực tư nhân để phát triển khoa học – công nghệ. Chính phủ chủ động đóng vai trò “người dẫn đường”, đầu tư mạnh mẽ vào tương lai chứ không chỉ hỗ trợ về mặt chính sách.

“Muốn theo kịp các nền kinh tế phát triển, Việt Nam cũng phải hành động quyết liệt, có tầm nhìn chiến lược, không thể làm một cách hời hợt. Nghị quyết 68 là một dấu mốc quan trọng, song chỉ ra một nghị quyết là chưa đủ. Điều cần thiết là tất cả phải làm một cách thật quyết liệt, không hời hợt, chỉ như thế Nghị quyết mới có thể thực sự thành công”, ông Nghĩa cho hay.

9:35: Ba điểm nghẽn lớn khiến khu vực tư nhân chưa bứt phá

PGS.TS Trần Quốc Toản, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, khẳng định: Nghị quyết 68 là một văn kiện có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện nhận thức và khẳng định rõ ràng của Đảng về vai trò thiết yếu của kinh tế tư nhân trong thời đại mới. Đặc biệt, Nghị quyết đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, điều mà trước đây còn nhiều tranh luận. Đây là sự chuyển biến căn bản trong tư duy phát triển, góp phần mở rộng động lực đưa đất nước đi lên.

Tuy nhiên, nhìn vào thực tiễn phát triển thời gian qua, kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế, do ba nguyên nhân lớn: nhận thức chưa đầy đủ và chưa thống nhất về vai trò của kinh tế tư nhân; thể chế, chính sách và bộ máy thực thi còn nhiều điểm nghẽn, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; bản thân khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn yếu, tiềm lực hạn chế, chưa thực sự trở thành lực lượng đủ mạnh.

Sự phát triển của kinh tế tư nhân gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử, do điều kiện đặc thù về nguồn lực sau giải phóng, chúng ta từng có giai đoạn thu hẹp vai trò tư nhân. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng minh không thể phát triển nếu thiếu vai trò của khu vực này. Bởi vậy, việc nhìn nhận đúng, đầy đủ và khách quan về kinh tế tư nhân là yêu cầu cấp thiết.

PGS.TS Trần Quốc Toản


Ngày nay, chúng ta phải tiếp cận kinh tế tư nhân không chỉ như một thành phần, mà như một trụ cột của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, vẫn tồn tại nhiều ý kiến cực đoan, hiểu sai hoặc phủ nhận vai trò tích cực của kinh tế tư nhân, khiến cho quá trình phát triển gặp lực cản vô hình.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta từng sai lầm khi đưa toàn bộ nông dân vào hợp tác xã cứng nhắc, dẫn tới khủng hoảng sản xuất. Mãi đến năm 1993, khi trao lại quyền làm chủ thực chất cho người dân và xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới, nông nghiệp mới phục hồi. Đây là bài học sâu sắc cho việc thiết kế chính sách phát triển tư nhân hôm nay.

Kinh tế tư nhân không phát triển mạnh nếu không giải được các bài toán lớn như: khó khăn trong tiếp cận đất đai (đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, nơi hàng trăm triệu mét vuông đất nông nghiệp đang bị vướng chính sách); tiếp cận tín dụng còn hạn chế; chính sách công nghệ thiếu lực đẩy; và sự liên kết chuỗi còn rời rạc. Hệ sinh thái doanh nghiệp chưa hình thành rõ nét, đặc biệt trong nông nghiệp - ngành trụ cột của quốc gia.

Cần có cơ chế tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi cung ứng, phát triển mô hình liên kết sản xuất theo kiểu hình chóp như tại Đức, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ nhau trong chuỗi giá trị.

Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, rất ít doanh nghiệp xuất khẩu theo chuỗi bài bản, còn lại vẫn phụ thuộc vào biến động giá cả thị trường. Vì vậy, việc xây dựng thể chế phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển là yêu cầu cấp bách.

Đồng thời, cần cải cách hành chính triệt để, giảm thiểu các thủ tục rườm rà gây cản trở và xây dựng văn hóa kinh doanh minh bạch, có đạo đức, tránh tình trạng “hàng giả, thực phẩm giả, đạo đức giả” như đang tồn tại ở một số nơi.

Nếu không xây dựng được môi trường kinh doanh lành mạnh, chúng ta sẽ không thể cạnh tranh với thế giới. Cuối cùng, một yếu tố then chốt là đào tạo đội ngũ doanh nhân có trình độ, có tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp. Nhà nước cần đóng vai trò chủ động trong việc hình thành lớp doanh nhân mới, đủ sức gánh vác trọng trách phát triển kinh tế tư nhân từ đó thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển bền vững trong giai đoạn mới.

8:45: Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance phát biểu đề dẫn

Phát biểu khai mạc tọa đàm, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance, ông Hoàng Anh Minh, cho biết kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển và những thành tựu rất quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nước. Nhưng lịch sử đã có những khúc quanh khiến cho kinh tế tư nhân đã gần như trở về con số "0" trong khoảng thời gian đầu thập niên 80, khi đất nước lâm vào khó khăn, khủng hoảng. Và rồi, chính tình trạng khó khăn khi đó đã thôi thúc, mở ra quá trình Đổi mới mà trong đó, kinh tế tư nhân dần tìm lại được vị thế, vai trò và tiếng nói của mình.

Giờ đây, kinh tế tư nhân đã hiện diện trên hầu khắp các ngành, lĩnh vực kinh tế và đóng góp vô cùng to lớn cho nền kinh tế quốc dân, nhất là trên các phương diện như đóng góp vào ngân sách, tạo việc làm, ổn định đời sống người dân.

Cách đây một năm, ngày 9/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 66/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW năm 2023 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, giai đoạn 2024 – 2030, Việt Nam đặt ra nhiều mục tiêu định lượng như sẽ có ít nhất 70 doanh nghiệp có vốn hóa thị trường đạt trên 1 tỷ USD, 120 doanh nghiệp có doanh thu thuần đạt trên 1 tỷ USD và 100 doanh nghiệp đạt lợi nhuận trước thuế trên 100 triệu USD; có ít nhất 10 doanh nhân Việt Nam lọt vào danh sách tỷ phú USD, 5 doanh nhân quyền lực nhất châu Á do các tổ chức uy tín thế giới bình chọn.

Nhưng điểm nhấn chính sách quan trọng nhất thực sự đã xuất hiện chỉ cách đây hơn một tuần, khi Tổng bí thư Tô Lâm đã ký ban hành NQ 68-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân có một số điểm mới quan trọng, theo đó xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; mục tiêu đến 2030, kinh tế tư nhân sẽ đóng góp khoảng 55% - 58% GDP.

Về chính sách, Nghị quyết đề xuất nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, như: tài chính, đất đai, pháp lý… đồng thời đề xuất các biện pháp để phát triển doanh nghiệp tư nhân như đào tạo giám đốc điều hành, hỗ trợ thực chất và hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ….

Tổng bí thư Tô Lâm trong một bài viết sau đó đã nhấn mạnh Nghị quyết 68-NQ/TW là “một bước ngoặt lịch sử thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và kỳ vọng rằng kinh tế tư nhân sẽ trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.

Dự kiến cuối tuần này, Tổng bí thư Tô Lâm sẽ chủ trì hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết quan trọng này. Không chỉ là chủ trương chính sách chung chung, các mục tiêu định lượng trong nghị quyết là rất cụ thể và ấn tượng, qua đó cho thấy quan điểm, tư tưởng đối với kinh tế tư nhân đã thay đổi hoàn toàn trong giai đoạn mới.

"Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn nhận, đánh giá về hành trình phát triển của cộng đồng kinh tế tư nhân đang ngày càng phát huy hiệu quả vai trò quan trọng của mình trong giai đoạn mới. Đồng thời, đây cũng là thời điểm để các doanh nghiệp, doanh nhân nhận thức lại vai trò và cơ hội của mình trong dòng chảy phát triển chung của đất nước, trước một “kỷ nguyên mới” - ông Hoàng Anh Minh bình luận.

Ông Hoàng Anh Minh - Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance

"Mặc dù bối cảnh chính sách lúc đó chưa hoàn toàn thuận lợi, chúng tôi đã lựa chọn con đường tiếp tục cổ vũ, đồng hành cùng sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân và chúng tôi cũng đã khởi động một chương trình nghiên cứu về lịch sử kinh tế tư nhân tại Việt Nam. Bối cảnh mới đã mang tới cho cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan báo chí như chúng tôi một tâm thế hồ hởi, mặc dù chúng tôi cũng ghi nhận không ít ý kiến bày tỏ thái độ thận trọng. Nhưng chúng tôi tin rằng, những thay đổi hết sức lớn lao trong những ngày tháng này là kết quả của một quá trình vận động và dồn nén nhiều năm. Dường như mỗi giai đoạn khó khăn, trì trệ, đất nước lại đứng trước cơ hội để thay đổi và phát triển.

"Chúng tôi cũng mong rằng, những đổi thay về chính sách sẽ đem tới một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và hiệu quả hơn cho cộng đồng doanh nghiệp nói chung, không riêng cho doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nào trong nền kinh tế", ông Hoàng Anh Minh bày tỏ.

8:30 Khai mạc tọa đàm

Toạ đàm có sự tham dự của đại diện các nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế - tài chính hàng đầu và đại diện các doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay.

Toạ đàm sẽ tập trung vào các nội dung cụ thể, bao gồm: Đánh giá vai trò và cơ hội mới của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh mới; khơi thông dòng chảy tài chính để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển năng động, hiệu quả, bền vững và thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án lớn của đất nước. Đồng thời, các diễn giả sẽ tập trung góp ý để khơi thông các điểm nghẽn thể chế, đặc biệt là các điều kiện kinh doanh phức tạp, phân biệt đối xử và rào cản pháp lý đối với doanh nghiệp tư nhân.

Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.

Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (nay là Viện Nghiên cứu chính sách và Chiến lược, thuộc Ban Chính sách, chiến lược Trung ương), trong kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ ban hành một nghị quyết đặc biệt về phát triển kinh tế tư nhân, nhằm tháo gỡ những vướng mắc về pháp lý đối với hàng ngàn dự án đầu tư hiện nay. Việc loại bỏ các rào cản này sẽ giải phóng nguồn lực lớn, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng trong năm nay và những năm tới.

TS. Nguyễn Đình Cung kỳ vọng lần này, Việt Nam sẽ có cách tư duy mới, hệ thống giải pháp đồng bộ theo đúng tinh thần Nghị quyết 68, thực thi quyết liệt để mục tiêu đề ra có thể đạt được. Tránh cách làm theo lối truyền thống, duy trì theo cách cũ, làm lỡ cơ hội phát triển của đất nước.

Nghị quyết của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

Tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.

Cập nhật
Xem mới nhất
Xem cũ nhất
Rút gọn
Toàn văn Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân

Toàn văn Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân

Hồ sơ
(VNF) - Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký Nghị quyết số 68 ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Cùng chuyên mục
Sáp nhập Bình Định – Gia Lai: Tỉnh quy mô lớn, từ duyên hải lên Tây Nguyên

Sáp nhập Bình Định – Gia Lai: Tỉnh quy mô lớn, từ duyên hải lên Tây Nguyên

13/05/25 07:30 (GMT+7)

(VNF) - Việc sáp nhập Bình Định và Gia Lai nhằm hình thành một tỉnh mới quy mô lớn, kết hợp lợi thế vùng duyên hải và Tây Nguyên, mở rộng không gian phát triển và tạo động lực mới cho liên kết vùng

Thủ tướng: 'Thái Bình cần lấn biển và làm ngay đường 10 làn nối với Hưng Yên'

Thủ tướng: 'Thái Bình cần lấn biển và làm ngay đường 10 làn nối với Hưng Yên'

12/05/25 16:10 (GMT+7)

(VNF) - Thủ tướng chỉ đạo tỉnh Thái Bình nghiên cứu, xây dựng kế hoạch lấn biển để phát triển khu kinh tế và làm ngay tuyến đường quy mô 10 làn từ khu vực TP. Hưng Yên tới khu vực TP. Thái Bình.

Đề xuất rút ngắn quy trình, thủ tục bầu cử sau sáp nhập tỉnh, xã

Đề xuất rút ngắn quy trình, thủ tục bầu cử sau sáp nhập tỉnh, xã

12/05/25 15:09 (GMT+7)

(VNF) - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đề xuất rút ngắn thời gian thực hiện quy trình, thủ tục bầu cử, đáp ứng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.

Đề nghị truy tố cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Phạm Thái Hà

Đề nghị truy tố cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Phạm Thái Hà

12/05/25 14:22 (GMT+7)

(VNF) - Ông Phạm Thái Hà, cựu phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, cựu trợ lý của cựu Chủ tịch Quốc hội, bị cơ quan điều tra đề nghị truy tố với cáo buộc lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi.

Vụ Xuyên Việt Oil: Cựu Bí thư Lê Đức Thọ được giảm 7 năm tù

Vụ Xuyên Việt Oil: Cựu Bí thư Lê Đức Thọ được giảm 7 năm tù

12/05/25 11:06 (GMT+7)

(VNF) - Ngày 12/5, TAND cấp cao TP. HCM đã tuyên giảm án cho 6/7 bị cáo trong vụ Xuyên Việt Oil, cựu Bí thư Lê Đức Thọ được giảm 7 năm tù.

Đề xuất nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV kết thúc sớm 3 tháng để kiện toàn nhân sự

Đề xuất nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV kết thúc sớm 3 tháng để kiện toàn nhân sự

12/05/25 10:51 (GMT+7)

(VNF) - Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 rút ngắn 3 tháng, kết thúc vào đầu tháng 4/2026 thay vì tháng 7, để kịp thời kiện toàn nhân sự cấp cao.

Quốc hội thảo luận về việc rút ngắn nhiệm kỳ Khoá XV

Quốc hội thảo luận về việc rút ngắn nhiệm kỳ Khoá XV

12/05/25 08:57 (GMT+7)

(VNF) - Quốc hội sẽ nghe tờ trình và thảo luận ở tổ về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV và Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

Doanh nghiệp Việt tăng nhập hàng hóa, đầu tư mở rộng hiện diện tại Mỹ

Doanh nghiệp Việt tăng nhập hàng hóa, đầu tư mở rộng hiện diện tại Mỹ

12/05/25 08:30 (GMT+7)

(VNF) - Nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang chủ động đẩy mạnh hợp tác thương mại với phía Mỹ. Từ việc gia tăng nhập khẩu hàng hóa đến đầu tư, mở rộng hoạt động tại thị trường Mỹ, hợp tác kinh tế song phương đang có chuyển biến thực chất và toàn diện hơn.

Hải Phòng đồng loạt khởi công, khánh thành 12 dự án

Hải Phòng đồng loạt khởi công, khánh thành 12 dự án

12/05/25 06:30 (GMT+7)

(VNF) - UBND đồng loạt tổ chức động thổ, khởi công, khánh thành, gắn biển 12 dự án lớn nhân kỷ niệm 70 năm giải phóng Hải Phòng.

Bà Trương Mỹ Lan đề nghị định giá lại khối tài sản 'trên dưới 1 triệu tỷ đồng'

Bà Trương Mỹ Lan đề nghị định giá lại khối tài sản 'trên dưới 1 triệu tỷ đồng'

11/05/25 16:51 (GMT+7)

(VNF) - Bà Trương Mỹ Lan xác định khối tài sản của mình hiện đang do Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) quản lý có tổng giá trị trên dưới 1 triệu tỷ đồng.

Tổng Bí thư: 'Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân'

Tổng Bí thư: 'Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân'

11/05/25 16:08 (GMT+7)

(VNF) - Tổng Bí thư yêu cầu nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân và sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ các chủ trương nêu tại Nghị quyết số 68.

Giá trần nhà ở xã hội: Bộ Tư pháp muốn áp dụng, Bộ Xây dựng nói cần nghiên cứu

Giá trần nhà ở xã hội: Bộ Tư pháp muốn áp dụng, Bộ Xây dựng nói cần nghiên cứu

11/05/25 14:15 (GMT+7)

(VNF) - Trước thực trạng giá bán nhà ở xã hội tăng cao, Bộ Tư pháp đề nghị bổ sung quy định giá trần trong dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nhà ở xã hội. Tuy nhiên, Bộ Xây dựng - cơ quan soạn thảo cho rằng đề xuất này cần tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng.

Gần 200 nghìn ô tô, xe máy 'cắm' ở F88, 1 nhân viên gánh 3 ô tô, 42 xe máy

Gần 200 nghìn ô tô, xe máy 'cắm' ở F88, 1 nhân viên gánh 3 ô tô, 42 xe máy

11/05/25 10:45 (GMT+7)

(VNF) - Sau một năm thua lỗ kỷ lục, F88 đã ghi nhận lợi nhuận hàng trăm tỷ đồng, chuẩn bị niêm yết trên sàn chứng khoán. Hệ thống này hiện cầm cố gần 200.000 phương tiện và dành hơn 40% doanh thu để trả lương cho nhân sự.

Chính phủ ra nghị quyết: Giảm 67% đơn vị cấp xã, cả nước còn hơn 3.300 xã phường và đặc khu

Chính phủ ra nghị quyết: Giảm 67% đơn vị cấp xã, cả nước còn hơn 3.300 xã phường và đặc khu

11/05/25 09:55 (GMT+7)

(VNF) - Sau đợt sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã năm 2025, số lượng xã, phường, thị trấn trên cả nước sẽ giảm từ hơn 10.000 xuống còn hơn 3.300. Đây được xem là bước đi mạnh mẽ nhất từ trước đến nay trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính ở cấp cơ sở.

Ngân sách khó khăn, chưa tăng lương trong năm 2025?

Ngân sách khó khăn, chưa tăng lương trong năm 2025?

11/05/25 08:45 (GMT+7)

(VNF) - Theo Bộ Nội vụ, trong bối cảnh kinh tế - xã hội còn nhiều biến động và thu ngân sách nhà nước dự báo gặp khó khăn, năm 2025 chưa có cơ sở để tiếp tục điều chỉnh tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Nâng sân bay Gia Bình lên cấp 4E, chuyển từ đầu tư công sang PPP

Nâng sân bay Gia Bình lên cấp 4E, chuyển từ đầu tư công sang PPP

10/05/25 22:57 (GMT+7)

(VNF) - Sân bay Gia Bình sẽ được nâng cấp từ 3C lên 4E và chuyển từ phục vụ an ninh, quốc phòng sang khai thác lưỡng dụng.

Trung tâm tài chính quốc tế: Cần chính sách vượt trội thuyết phục nhà đầu tư

Trung tâm tài chính quốc tế: Cần chính sách vượt trội thuyết phục nhà đầu tư

10/05/25 22:43 (GMT+7)

(VNF) - Thủ tướng yêu cầu phải có chính sách vượt trội để thuyết phục được các nhà đầu tư tại Trung Đông, Trung Quốc, ASEAN, Mỹ, châu Âu… tham gia trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.

Chủ tịch Quốc hội: ‘Quy hoạch phải vì dân, không vì nhiệm kỳ’

Chủ tịch Quốc hội: ‘Quy hoạch phải vì dân, không vì nhiệm kỳ’

10/05/25 19:15 (GMT+7)

(VNF) - Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh: Quy hoạch phải minh bạch, không thể để nhiệm kỳ nào lên cũng thay đổi theo ý riêng, phục vụ lợi ích cục bộ.

Khởi công dự án cải tạo rạch Xuyên Tâm gần 17.230 tỷ đồng

Khởi công dự án cải tạo rạch Xuyên Tâm gần 17.230 tỷ đồng

10/05/25 16:45 (GMT+7)

(VNF) - Dự án nạo vét, cải tạo môi trường xây dựng hạ tầng rạch Xuyên Tâm trên địa bàn quận Bình Thạnh và Gò Vấp, có tổng mức đầu tư của dự án khoảng 17.229 tỷ đồng.

Thủ tướng: Lãnh đạo phải 'lao tâm khổ tứ' với dự án như công việc của chính mình

Thủ tướng: Lãnh đạo phải 'lao tâm khổ tứ' với dự án như công việc của chính mình

10/05/25 15:50 (GMT+7)

(VNF) - Thủ tướng yêu cầu các cấp lãnh đạo phải hoạt động tích cực, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc cho các dự án, 'lao tâm khổ tứ' như với công việc của chính mình.

'Không có quy chuẩn sẽ rất khó kiểm soát sữa giả, thuốc giả'

'Không có quy chuẩn sẽ rất khó kiểm soát sữa giả, thuốc giả'

10/05/25 15:25 (GMT+7)

(VNF) - Nhắc đến các vụ sữa giả, thuốc, thực phẩm chức năng giả, Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh nếu không có các tiêu chuẩn, quy chuẩn thì rất khó quản lý.

Bộ Công an yêu cầu tỉnh Long An cung cấp hồ sơ 36 dự án cây xanh

Bộ Công an yêu cầu tỉnh Long An cung cấp hồ sơ 36 dự án cây xanh

10/05/25 15:00 (GMT+7)

(VNF) - Bộ Công an yêu cầu tỉnh Long An cung cấp hồ sơ 36 dự án trồng, chăm sóc cây xanh và chỉnh trang đô thị trên địa bàn tỉnh để phục vụ điều tra. Trong đó, có dự án liên quan Công ty TNHH cây xanh Công Minh.

Quyết tâm khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ngày 19/12

Quyết tâm khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ngày 19/12

10/05/25 14:30 (GMT+7)

Thủ tướng đề nghị quyết tâm, quyết liệt triển khai Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, bảo đảm các điều kiện để khởi công dự án vào ngày 19/12 năm nay.

Tin khác
Chính phủ đề xuất giảm 2% thuế VAT đến hết năm 2026

Chính phủ đề xuất giảm 2% thuế VAT đến hết năm 2026

(VNF) - Chính phủ đề xuất giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), áp dụng từ ngày 1/7/2025 đến hết ngày 31/12/2026.

Sáp nhập Bình Định – Gia Lai: Tỉnh quy mô lớn, từ duyên hải lên Tây Nguyên

Sáp nhập Bình Định – Gia Lai: Tỉnh quy mô lớn, từ duyên hải lên Tây Nguyên

Thủ tướng: 'Thái Bình cần lấn biển và làm ngay đường 10 làn nối với Hưng Yên'

Thủ tướng: 'Thái Bình cần lấn biển và làm ngay đường 10 làn nối với Hưng Yên'

Đề xuất rút ngắn quy trình, thủ tục bầu cử sau sáp nhập tỉnh, xã

Đề xuất rút ngắn quy trình, thủ tục bầu cử sau sáp nhập tỉnh, xã

Đề nghị truy tố cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Phạm Thái Hà

Đề nghị truy tố cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Phạm Thái Hà

Vụ Xuyên Việt Oil: Cựu Bí thư Lê Đức Thọ được giảm 7 năm tù

Vụ Xuyên Việt Oil: Cựu Bí thư Lê Đức Thọ được giảm 7 năm tù

Đề xuất nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV kết thúc sớm 3 tháng để kiện toàn nhân sự

Đề xuất nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV kết thúc sớm 3 tháng để kiện toàn nhân sự

Quốc hội thảo luận về việc rút ngắn nhiệm kỳ Khoá XV

Quốc hội thảo luận về việc rút ngắn nhiệm kỳ Khoá XV

Doanh nghiệp Việt tăng nhập hàng hóa, đầu tư mở rộng hiện diện tại Mỹ

Doanh nghiệp Việt tăng nhập hàng hóa, đầu tư mở rộng hiện diện tại Mỹ

Hải Phòng đồng loạt khởi công, khánh thành 12 dự án

Hải Phòng đồng loạt khởi công, khánh thành 12 dự án

Bà Trương Mỹ Lan đề nghị định giá lại khối tài sản 'trên dưới 1 triệu tỷ đồng'

Bà Trương Mỹ Lan đề nghị định giá lại khối tài sản 'trên dưới 1 triệu tỷ đồng'

Tổng Bí thư: 'Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân'

Tổng Bí thư: 'Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân'

Giá trần nhà ở xã hội: Bộ Tư pháp muốn áp dụng, Bộ Xây dựng nói cần nghiên cứu

Giá trần nhà ở xã hội: Bộ Tư pháp muốn áp dụng, Bộ Xây dựng nói cần nghiên cứu

Gần 200 nghìn ô tô, xe máy 'cắm' ở F88, 1 nhân viên gánh 3 ô tô, 42 xe máy

Gần 200 nghìn ô tô, xe máy 'cắm' ở F88, 1 nhân viên gánh 3 ô tô, 42 xe máy

Chính phủ ra nghị quyết: Giảm 67% đơn vị cấp xã, cả nước còn hơn 3.300 xã phường và đặc khu

Chính phủ ra nghị quyết: Giảm 67% đơn vị cấp xã, cả nước còn hơn 3.300 xã phường và đặc khu

Ngân sách khó khăn, chưa tăng lương trong năm 2025?

Ngân sách khó khăn, chưa tăng lương trong năm 2025?

Nâng sân bay Gia Bình lên cấp 4E, chuyển từ đầu tư công sang PPP

Nâng sân bay Gia Bình lên cấp 4E, chuyển từ đầu tư công sang PPP

Trung tâm tài chính quốc tế: Cần chính sách vượt trội thuyết phục nhà đầu tư

Trung tâm tài chính quốc tế: Cần chính sách vượt trội thuyết phục nhà đầu tư

Chủ tịch Quốc hội: ‘Quy hoạch phải vì dân, không vì nhiệm kỳ’

Chủ tịch Quốc hội: ‘Quy hoạch phải vì dân, không vì nhiệm kỳ’

Khởi công dự án cải tạo rạch Xuyên Tâm gần 17.230 tỷ đồng

Khởi công dự án cải tạo rạch Xuyên Tâm gần 17.230 tỷ đồng

Thủ tướng: Lãnh đạo phải 'lao tâm khổ tứ' với dự án như công việc của chính mình

Thủ tướng: Lãnh đạo phải 'lao tâm khổ tứ' với dự án như công việc của chính mình

'Không có quy chuẩn sẽ rất khó kiểm soát sữa giả, thuốc giả'

'Không có quy chuẩn sẽ rất khó kiểm soát sữa giả, thuốc giả'

Bộ Công an yêu cầu tỉnh Long An cung cấp hồ sơ 36 dự án cây xanh

Bộ Công an yêu cầu tỉnh Long An cung cấp hồ sơ 36 dự án cây xanh

Quyết tâm khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ngày 19/12

Quyết tâm khởi công dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ngày 19/12

OSZAR »